Page 40 - Đi Tìm Lẽ Sống
P. 40

Nếu như hôm đó không có tiếng chuông giải thoát kia, tôi nghĩ rằng mình sẽ
           phải về trạm trên một trong những chiếc xe chở những người đã chết hoặc
           gần như chết do kiệt sức. Không ai có thể tưởng tượng được rằng trong tình

           huống đó tiếng chuông báo động đã khiến tù nhân chúng tôi cảm thấy nhẹ
           nhõm như thế nào, ngay cả cảm giác của võ sĩ quyền anh khi nghe tiếng
           chuông kết thúc hiệp đấu đúng lúc cứu anh ta khỏi nguy cơ đo ván cũng
           không thể so sánh được.


               Chúng tôi biết ơn cả những ân huệ nhỏ nhặt nhất - nếu có thể gọi đó là
           “ân huệ”. Chẳng hạn như chúng tôi vui mừng khi có thời gian bắt chấy cho
           nhau trước khi đi ngủ, mặc dù việc này cũng chẳng có gì thú vị do phải đứng
           trần truồng trong khu nhà không có lò sưởi với tuyết đóng cục trên trần nhà.

           Nhưng chúng tôi biết ơn nếu như tiếng còi không vang lên trong lúc bắt chấy
           và đèn không bị tắt. Bởi nếu làm việc đó không xong, chúng tôi sẽ bị lũ chấy
           rận đánh thức vào lúc nửa đêm.


               Những niềm vui ít ỏi về cuộc sống trong trại đã sản sinh một loại hạnh
                                                                                     [9]
           phúc tiêu cực - theo cách nói của triết gia Schopenhauer  là một hình thức
           “thoát khổ” - cho dù sự cứu rỗi đó chỉ mang tính tương đối, tạm thời. Niềm
           vui thật sự, dù nhỏ nhoi, cũng rất ít. Tôi nhớ có lần tôi đã vẽ một bảng cân
           bằng hạnh phúc và thấy rằng trong nhiều tuần qua, tôi chỉ có được hai lần
           vui vẻ. Một lần là lúc trở về trại từ nơi làm việc, sau khi chờ đợi rất lâu, tôi
           được vào nhà bếp và được xếp vào hàng do một tù nhân - đầu bếp F. phân

           phát thức ăn. Ông ấy đứng sau một cái chảo lớn và múc xúp vào bát của
           những  tù  nhân  đang  vội  vã  cầm  bát  đi  qua.  Ông  ấy  là  đầu  bếp  duy  nhất
           không nhìn vào những người đang cầm tô đợi ông múc xúp; là đầu bếp duy

           nhất múc phần xúp bằng nhau, bất kể người nhận là ai; và là người không ưu
           ái cho cả những người bạn hoặc đồng hương của mình, thêm cho họ khoai
           tây trong khi những người khác chỉ được múc một ít xúp toàn nước.


               Nhưng thật không phải nếu tôi phán xét những người tù vốn coi trọng tình
           đồng hương. Ai có thể trách những người này khi họ ưu ái bạn bè của mình
           hơn trong hoàn cảnh như thế này, bởi không sớm thì muộn, ai ai ở đây cũng
           phải đối mặt với vấn đề sự sống hay cái chết. Không người nào được quyền
           phán xét họ trừ khi người đó thực lòng hỏi chính mình rằng liệu trong tình

           huống tương tự mình sẽ không làm như thế chăng.

               Sau một thời gian dài quay trở lại cuộc sống bình thường (một thời gian
           dài sau khi ra trại), một người đã cho tôi xem những bức ảnh của các tù nhân

           trong trại tập trung đang nằm chen chúc trên giường, ánh nhìn vô cảm hướng
           về những người khách viếng thăm. “Thật là khủng khiếp, những khuôn mặt
           gầy rộc với những đôi mắt toát lên cái nhìn đe doạ - điều ấy đã nói lên tất
   35   36   37   38   39   40   41   42   43   44   45