Page 33 - Đi Tìm Lẽ Sống
P. 33
với cuộc sống nội tâm phong phú và sự tự do về tinh thần. Chỉ có cách này
mới giải thích được nghịch lý tại sao một số tù nhân trông bề ngoài yếu đuối
lại có thể tồn tại trong trại tốt hơn những người cường tráng khác. Để làm rõ
sự việc, tôi buộc phải nhớ lại trải nghiệm của cá nhân mình. Hãy để tôi kể
điều gì đã xảy ra vào những buổi sáng sớm khi chúng tôi phải đi bộ đến công
trường.
Tên lính hét vang hiệu lệnh: “Toàn đội, đi thẳng! Trái 2-3-4! Trái 2-3-4!
Trái 2-3-4! Trái 2-3-4! Người đứng đầu bước sang trái, trái, trái, trái và trái!
Cởi nón ra!”. Những câu hiệu lệnh này vẫn còn ám ảnh tôi đến tận bây giờ.
Ngay khi hiệu lệnh “Cởi nón ra!” được thét lên, chúng tôi bước qua cổng
trại, ánh đèn pha chiếu xuống đầu chúng tôi. Những ai không đi đều hàng sẽ
bị đá. Người nào đội nón trùm tai lại cho đỡ lạnh trước khi được cho phép sẽ
càng thê thảm hơn.
Chúng tôi dò dẫm trong bóng tối, bước qua những tảng đá lớn và đi qua
nhiều vũng nước, dọc theo con đường dẫn từ trại. Bọn lính canh đi cùng
không ngừng la hét với chúng tôi và hướng dẫn bằng báng súng. Bất cứ ai bị
đau chân đều phải nhờ vào cánh tay của người đi bên cạnh giúp đỡ. Hầu như
không ai nói câu nào; những cơn gió rét buốt không có lợi cho việc nói
chuyện. Giấu đôi môi sau chiếc cổ áo dựng lên, người đi bên cạnh tôi bỗng
thì thầm: “May mà vợ chúng ta không thấy chúng ta như thế này! Tôi hy
vọng họ sống khá hơn ở trại của họ và không biết việc đang xảy ra với chúng
ta”.
Điều này khiến tôi nhớ đến người vợ thân yêu của mình. Chúng tôi bị dẫn
đi hàng dặm, nhiều lần bị trượt té trên những chỗ đóng băng, mọi người giúp
nhau đứng dậy và lại tiếp tục, tuy không ai nói gì, nhưng cả hai chúng tôi
biết: mỗi người đang nghĩ về người bạn đời của mình. Thỉnh thoảng, tôi
ngước nhìn bầu trời, những ngôi sao đang mờ dần và ánh sáng hồng của bình
minh bắt đầu trải dài đằng sau những đám mây u ám. Những khi ấy, hình
ảnh về người vợ yêu dấu chiếm trọn tâm trí tôi, tôi nhớ hình dáng của nàng,
mường tượng đang trò chuyện cùng nàng, giọng nói của nàng dường như
vang vọng đâu đây. Tôi nghe nàng trả lời, nhìn thấy nụ cười, ánh mắt đầy
khích lệ của nàng. Dù thức hay hư thì ánh mắt ấy nhìn tôi còn sáng hơn cả
ánh bình minh đang hé rạng.
Một ý nghĩ loé lên trong tôi: lần đầu tiên trong đời tôi đã nhìn thấy chân
lý mà loài người từ bao đời nay đã ca tụng qua những vần thơ, cũng là chân
lý tối thượng của các bậc học giả, rằng: Tình yêu là mục đích cuối cùng và là
mục đích cao cả nhất của nhân loại. Rồi tôi hiểu được ý nghĩa huyền diệu
nhất trong các vần thơ, tư tưởng và niềm tin của nhân loại truyền lại: Linh
hồn của con người chỉ có thể tìm thấy sự cứu rỗi thông qua tình yêu và trong