Page 53 - Nguồn gốc dân tộc Việt Nam
P. 53

tem nữa. Đến thời đại đồ đồng, cái tín ngưỡng đối với chim

           Lạc hẳn cũng đã phai lạt hết mà chỉ còn là một ký ức trong

           tục truyền thôi.


                   Về tín ngưỡng thì hẳn người Lạc-Việt cũng thờ quỷ thần

           và cũng chôn người chết theo nghi thức như người nước Việt

           bỏ đồ minh khí bằng đá và bằng đồng vào quan tài mà chôn.

           – Hẳn họ cũng chuộng phương thuật. Sách Việt sử lược chép

           rằng « Ở thời Trang-vương nhà Chu, tại quận Gia-ninh – tức

           là huyện Mê-linh đời Hán – có người lạ đến lấy ảo thuật để

           phục các bộ-lạc, tự xưng là Hùng-vương ». Câu sách ấy tất

           có quan hệ đến sự di thực đến miền Bắc-kỳ của người Lạc-

           Việt,  và  có  thể  cho  chúng  ta  biết  rằng  xưa  đã  có  truyền

           thuyết rằng tù-trưởng người Lạc-Việt là giỏi pháp thuật.


                   Nhà chi-na học người Pháp, H.Maspero, cho rằng người

           Lạc-Việt – ông gọi là người Văn-Lang – « cũng như các dân

           tộc bán khai ở miền Đông-Nam châu Á ; hẳn có tôn giáo có

           tính chất nông nghiệp. Mỗi năm có một hội mùa xuân cũng

           như hiện nay ở các bộ-lạc Thái miền thượng du còn có… mà

           ở  miền  trung  châu  thỉnh  thoảng  người  ta  cũng  còn  nhận

           được dấu tích phưởng phất. Hội ấy, với tính chất phóng túng

           và lẫn lộn trai gái, có ý nghĩa ghi dấu mùa xuân và mở đầu

           công việc đồng áng. Trai gái dùng trầu cau làm môi giới để

           cầu hôn ». Có lẽ trong những cuộc hội hè tế lễ ấy, họ dùng

           những nhạc khí, như cái trống đồng và cái kèn bằng ống nứa

           (như kèn của người Mường, người Mọi, người Lào) và cái sinh

           bằng gỗ. Giữa những tiếng nhạc ồn ào thì con trai con gái

           cùng  nhau  múa  hát.  Hai  nhà  khảo  cổ  học  Geldern  và

           Goloubew  đều  nhận  thấy  khắc  trong  trống  đồng  của  người

           Lạc-Việt  những  hình  tượng  có  quan  hệ  với  những  lễ  nghi

                                                                                          14
           tương tự với lễ nghi của người Mường ngày nay.
   48   49   50   51   52   53   54   55   56   57   58