Page 246 - Danh_bai_pho_wall
P. 246

Gần đ}y h{ng tỷ đô-la liên tục được đổ vào trái phiếu, cổ phiếu và các quỹ tương hỗ của
               thị trường tiền tệ thì không có gì ngạc nhiên khi thấy các công ty kinh doanh quỹ tương hỗ
               này lại hoạt động quá tốt đến vậy. Nếu có gì ngạc nhiên thì chỉ l{ chưa có ai th{nh lập Quỹ
               tương hỗ của các công ty kinh doanh quỹ tương hỗ mà thôi.


                   Thông tin về công ty nào tham gia vào và rút lui ra khỏi loại quỹ n{o luôn được ngành
               này công bố bằng các ấn bản, và những chuyên gia hay tay mơ đều có cơ hội tận dụng nó
               như nhau. Nếu bạn không mua các cổ phiểu n{y sau đợt giảm giá lớn lần trước thì bạn vẫn
               có thể mua chúng trong thời kỳ bán tháo do lo sợ cuộc chiến của Saddam vào cuối năm
               1990, khi m{ Eaton Vance đ~ bị sụt giảm 30% giá trị trong một năm, Dreyfus l{ 18,86% v{
               các công ty khác mặc dù nhỏ hơn nhưng mức độ sụt giảm cũng không hề thua kém chút
               nào.

                   Một lần nữa những lời đồn thổi về sự sụp đổ của ng{nh n{y đ~ được chứng tỏ l{ vô căn
               cứ. Tất cả những gì bạn phải l{m để dập tắt nỗi lo sợ này là nhìn vào những con số về doanh
               thu của các quỹ tương hỗ vào tháng 12/1990 và tháng 1/1991. Mặc dù đ~ quyết tâm không
               trở lại với c|c thói quen cũ, nhưng một lần nữa tôi lại bị ngủ gật khi không khuyến nghị một
               công ty kinh doanh các quỹ tương hỗ với ban hội thẩm của Barron’s năm 1991. Ai h}m mộ
               những dự đo|n của Lynch (nếu có ai đó, ngo{i vợ tôi ra) đ~ lỡ mất lần hồi phục của Franklin
               (tăng 75% năm 1991), Dreyfus (55%), T.Rowe Price (116%), United Asset Management
               (80%), Colonial Group (40%), v{ State Street Bank (81,77%). Năm đó, Quỹ tương hỗ của
               các công ty đầu tư kinh doanh quỹ tương hỗ giả tưởng tăng gi| trị gần gấp đôi.


                   Thưa c|c bạn, để biện minh cho mình, tôi hy vọng được phép đề cập đến việc đ~ khuyến
               nghị Kemper, một công ty bảo hiểm có cổ phần khá lớn trong lĩnh vực kinh doanh quỹ
               tương hỗ trị giá 50 tỷ đô-la. Đ}y không phải là lý do duy nhất tôi chọn Kemper − hoạt động
               kinh doanh bảo hiểm của nó đang bắt đầu thay đổi theo chiều hướng tốt hơn v{ c|c công ty
               con hoạt động trong lĩnh vực môi giới của nó, như Prescott, Ball v{ Turben, cũng vậy. Cổ
               phiếu của Kemper đ~ tăng gi| trị gấp đôi năm 1991. Như vậy, tôi có thể được tha thứ phần
               nào.

                   Đầu năm 1992, tôi tự nhắc nhở bản th}n l{ không được lặp lại những sai lầm trước đ}y
               v{o c|c năm 1987 v{ 1991. Lần này tôi theo dõi rất kĩ tình trạng quỹ. Với lãi suất đang giảm
               và 200 tỷ đô-la kỳ phiếu ng}n h{ng đ|o hạn mỗi tháng, một luồng vốn lớn đang ra khỏi các
               ngân hàng và chảy vào tất cả các quỹ. Điều n{y đ~ góp phần l{m tăng gi| của bảy cổ phiếu
               nói trên. Mặt kh|c, sau đợt lên giá mạnh năm 1991, đa phần các cổ phiếu n{y đều b|n được
               với giá quá cao. Cổ phiếu duy nhất không như vậy là Colonial Group.

                   Mặc dù đ~ tăng 40% v{o năm 1991 nhưng gi| của mỗi cổ phiếu Colonial Group cũng chỉ
               ở mức 17 đô-la, bằng với giá chào bán lần đầu ph|t h{nh ra công chúng năm 1985. Thời
               gian đó, Colonial quản lý các quỹ tương hỗ trị giá 5-6 tỷ đô-la và kiếm được 1 đô-la/cổ
               phiếu. Giờ nó quản lý 9 tỷ đô-la và kiếm được 1,55 đô/cổ phiếu, ngoài ra nó còn có kiếm
               được 4 đô-la/cổ phiếu bằng tiền mặt và mang về khoản giá trị 7% cho cổ phiếu. Vì vậy sau
               s|u năm ch{o b|n, một công ty lớn mạnh hơn vẫn có thể mua được với gi| không đổi, và
               nếu bạn trừ đi 4 đô-la tiền mặt, số mà bạn nhận được sẽ ít hơn 4 đô-la so với thời điểm năm






                  Học chứng khoán bằng cách CLICK vào website: https://CophieuX.com
   241   242   243   244   245   246   247   248   249   250   251