Page 204 - Danh_bai_pho_wall
P. 204

Khi mua một công ty, bạn thường phải trả cao hơn gi| trị sổ sách. Khoản chênh lệch này
               trở thành lợi thế thương mại, và nó phải được hạch toán trong bảng c}n đối kế toán.

                   Trước năm 1970, c|c không ty không phải khấu trừ thu nhập để tạo nên lợi thế thương
               mại. Theo chế độ hạch to|n cũ, khi công ty X mua công ty Y, công ty X có thể kết chuyển toàn
               bộ giá mua công ty Y thành một loại tài sản. Một trong những hậu quả của việc này là nếu
               công ty X trả quá nhiều cho công ty Y, cổ đông sẽ không nhìn ra được điểm bất lợi của giao
               dịch mua lại n{y, v{ cũng không có c|ch n{o để biết được liệu giá mua công ty Y có thu hồi
               lại được hay không.


                   Để giải quyết vấn đề này, những người lập ra quy tắc hạch to|n l{m thay đổi lại cả hệ
               thống. Giờ đ}y, khi công ty X mua công ty Y, số tiền mà công ty X trả vượt qu| v{ cao hơn gi|
               trị tài sản hữu hình, cụ thể như khoản chênh lệch lợi thế thương mại, phải được khấu trừ từ
               thu nhập của công ty X trong vòng v{i năm.


                   “Sự khấu trừ” thu nhập này là một loại giao dịch trên giấy tờ, khiến cho lợi nhuận báo
               cáo của công ty thấp hơn thu nhập thực tế. Hậu quả là, nhìn bề ngoài thì các vụ mua lại
               thường có vẻ ít thu về lợi nhuận hơn thực tế, tình huống dẫn đến cổ phiếu của Sun
               Distributors bị trả giá thấp hơn thực tế.

                   Trong trường hợp này, khoản lợi thế thương mại mà Sun Distributors phải xóa bỏ trị
               giá 57 triệu đô-la, và nghiệp vụ hạch toán này làm giảm lợi nhuận báo cáo của hai loại cổ
               phiếu xuống còn 1,25 đô-la/cổ phần – trong khi thực tế công ty kiếm được gần gấp đôi số
               tiền đó. Mức lợi nhuận không có thực mà công ty sở hữu nhưng lại không được hạch toán là
               lợi nhuận được gọi là luồng tiền tự do.

                   Luồng tiền tự do dồi dào sẽ giúp công ty có khả năng biến đổi linh hoạt trong những
               thời kỳ tốt đẹp cũng như tồi tệ. Điều n{y có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong trường hợp
               của Sun Distributors vì tỷ lệ nợ của công ty này rất cao – 60% tổng giá trị vốn hoá. Tôi thấy
               nhẹ cả người khi phát hiện ra rằng luồng tiền mặt của công ty đủ để chi trả lãi các khoản nợ
               gấp bốn lần như vậy.


                   Khi nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, Sun Distributors sử dụng luồng tiền của mình để
               mở rộng hoạt động bằng cách mua các doanh nghiệp với tổng trị giá lên tới 41 triệu đô-la.
               Trong năm 1991, Marshall cho biết công ty đ~ đối phó với tình trạng suy thoái bằng cách
               giảm bớt các giao dịch mua lại các doanh nghiệp và dành toàn bộ luồng tiền mặt của mình
               để giảm nợ. Số tiền 110 triệu đô-la mà công ty vay với mức 9,5% có thể trả hết trong vòng
               hai năm nếu Sun sử dụng toàn bộ luồng tiền mặt dư thừa của mình cho mục đích đó. Rõ
               r{ng đó chính l{ những gì công ty quyết định làm.


                   Nếu như tình hình xấu hơn nữa, Sun có thể bán các tài sản mua lại của mình, chẳng hạn
               như những đơn vị kinh doanh phụ tùng ô tô, để giảm bớt thêm số nợ.

                   Việc tạm hoãn mua lại có thể sẽ khiến cho nguồn thu của Sun tăng không nhanh như
               trước, nhưng mặt khác, bảng c}n đối kế toán của công ty lại trở nên vững mạnh hơn. Động






                  Học chứng khoán bằng cách CLICK vào website: https://CophieuX.com
   199   200   201   202   203   204   205   206   207   208   209