Page 154 - Chiêu bài quản lý vàng của Bill Gates
P. 154

2.0, bộ nhớ trong 256K, độ phân giải màu là 256. Windows 1.0 có
           giao diện hình hóa, hỗ trợ thao tác bằng chuột và thực hiện nhiều
           nhiệm vụ cùng một lúc. Giao diện cơ bản nhất trong Windows 1.0 là
           cửa sổ. Ngoài ra, Windows 1.0 còn bao gồm một số chương trình ứng

           dụng mà hiện nay vẫn còn được sử dụng trong hệ điều hành
           Windows, ví dụ như máy tính, đồng hồ, lịch…


                 Không lâu sau, Microsoft lại tiến hành cải tiến Windows 1.0, đưa

           ra Windows 2.0. Có thể nói, sự xuất hiện của bộ vi xử lí Intel 286 đã
           đẩy nhanh sự xuất hiện của Windows 2.0 trên thị trường. Bộ xử lí
           Intel 286 có khả năng nâng cao tốc độ xử lí, mở rộng bộ nhớ trong,
           đối với một số chức năng thông dụng, Microsoft đã thiết kế các phím

           nóng và tổ hợp phím.


                 Tháng 5 năm 1990, Windows 3.0 được đưa ra thị trường.
           Windows 3.0 có giao diện đơn giản, thao tác thêm cá tính hóa, cuối

           cùng đã giành được sự tín nhiệm của khách hàng. Để mở rộng hơn
           nữa thị phần, Microsoft lần lượt đưa ra các phiên bản Windows 3.0
           với nhiều ngôn ngữ khác nhau. Việc này đặt nền móng cho việc khai
           thác thị trường ở các nước không nói tiếng Anh sau này. Khi đó lại có

           bộ xử lí Intel 386 tiên tiến hơn, khiến Windows 3.0 như hổ thêm
           cánh. Windows 3.0 không những có chức năng hệ điều hành 32 số mà
           hiệu quả hiển thị hình ảnh cũng được cải thiện rất nhiều. Windows
           3.0 còn tương thích với phần cứng máy tính, chỉ cần lắp chương trình

           khởi động tương ứng là có thể yên tâm sử dụng.


                 Microsoft có thể làm mưa làm gió với hệ điều hành Windows
           cũng là nhờ vào Dos. Dos không những giá thấp mà chức năng lại tốt.

           Việc này khiến cho việc máy tính có thể vận hành một cách dễ dàng đã
           trở thành hiện thực. Cuối những năm 80 của thế kỷ 20, sự xuất hiện
           hàng loạt các phần mềm mới khiến cho Dos không còn đường tiêu
           thụ, thế là Microsoft bắt đầu khai thác hệ điều hành Windows. Dù các

           đối thủ cũ đã vượt qua Microsoft về phương diện Dos nhưng về
           phương diện thị phần, Microsoft vẫn chiếm ưu thế, vì hệ điều hành
           Windows đã nhanh chóng tương thích với rất nhiều chức năng của
           Dos.



                 Tuy nhiên, Dos thực sự phải đối mặt với việc phải rút khỏi thị
           trường khi phần mềm Excel 2.0 ra đời. Ngành phần mềm máy tính
           rất quan tâm đến phần mềm Excel 2.0, chức năng của nó rất hoàn

           hảo. Sự thành công của Excel 2.0 cũng là thành công của hệ điều hành
   149   150   151   152   153   154   155   156   157   158   159