Page 158 - Danh_bai_pho_wall
P. 158

Tôi phàn nàn về vấn đề c|i đầu mới với phó chủ tịch kiêm trưởng phòng tài chính của
               Supercuts, Steven J.Thompson, qua một cuộc điện thoại tới California. Ông ta lấy làm tiếc vì
               phần tóc mai bị xén mất của tôi và nói rằng: “Tin tốt l{nh l{ tóc đ~ mọc trở lại với tốc độ
               hơn 1 cm/th|ng.” Tôi đ~ hy vọng điều n{y khi đọc về tốc độ tóc mọc trước đó trong tập
               quảng cáo của cửa hàng.


                   Chúng ta đ~ thảo luận về ý tưởng tất cả các thợ tạo mẫu tóc của Supercuts có giấy phép
               hành nghề, sau bảy tháng sẽ phải tham dự một khóa tập huấn lại, và nhất trí rằng các khoản
               bảo hiểm y tế và tiền boa sẽ thu hút thợ giỏi. Điều làm tôi lo lắng ở đ}y l{ tỷ lệ luân chuyển
               nh}n viên cao, trình độ cắt kém của những nhân viên tay nghề thấp, và/hoặc tính tình
               không ổn định. Tôi hỏi về tỷ lệ luân chuyển nhân viên, ông Thompson cho biết từ trước tới
               nay tỷ lệ này rất thấp.

                   Phần lớn c|c thông tin tôi có đều tốt đẹp. Mức nợ m{ tôi đ|nh dấu trước đó l{ vấn đề
               lớn, hóa ra không trầm trọng như tôi nghĩ. Supercuts có 5,4 triệu đô-la tiền mặt lưu chuyển
               h{ng năm v{ phần lớn trong số đó, theo như ông Thompson cho biết, l{ để thanh toán nợ.
               Đến năm 1993, công ty kỳ vọng sẽ không còn khoản nợ nào và chi phí lãi của khoản vay 2,1
               triệu đô-la v{o năm 1991 sẽ không còn nữa.


                   Do là hoạt động kinh doanh nhượng quyền, nên vốn để thành lập một cửa hàng
               Supercuts mới là của chủ sở hữu giấy phép nhượng quyền kinh doanh. Đ}y lại là một lợi thế
               lớn khác: Supercuts có thể được mở rộng hoạt động kinh doanh nhanh chóng mà không
               phải sử dụng vốn của nó và không phải vay mượn nhiều.


                   Lợi thế lớn nhất là 250 triệu người Mỹ cần cắt tóc hàng tháng, và với tình trạng các thợ
               cắt tóc nhỏ lẻ đang dần đóng c|c cửa hàng của họ, chưa có một chuỗi cửa h{ng vượt trội nào
               được hình th{nh để lấp chỗ trống đó cả. C|c đối thủ cạnh tranh chính của Supercuts, bao
               gồm Regis Corporation đang vận hành Mastercuts trong các khu buôn bán lớn thì phải trả
               tiền thuê cửa h{ng cao hơn nhiều v{ đa số khách hàng là nữ, Fantastic Sam có số lượng cửa
               hàng gấp đôi Supercuts thì lại có doanh thu chưa bằng một nửa của Supercuts, còn
               J.C.Penney chỉ kinh doanh tại các cửa hàng cắt tóc nam nữ của chính nó.


                   Supercuts còn có một ưu điểm nữa là mở cửa vào cả chủ nhật và buổi tối. Công ty đ~ có
               một chiến dịch quảng cáo trên toàn quốc để thương hiệu ng{y c{ng được nhận diện rộng
               r~i, điều m{ c|c đối thủ cạnh tranh không có. Trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển
               n{y, công ty tăng trưởng 20%, và giá cổ phiếu của nó đ~ tăng 16 lần tại thời điểm tôi giới
               thiệu nó trên Barron’s.

                   Cuối cùng, các con số tuyệt vời đ~ chiến thắng những sợi tóc mai bị xén và tôi chào bán
               Supercuts trên tạp chí Barron’s. “Tôi đ~ cắt tóc ở đó, tôi đ~ thử rồi”, tôi nói với những người
               còn lại trong ban hội thẩm. Mario Gabelli hỏi tôi “Có phải l{ c|i đầu n{y không?” v{ tôi buộc
               phải thừa nhận. Abelson nói: “Chúng tôi sẽ không quảng c|o nó”


                Mã cổ phiếu   Công ty   Giá tại ngày 13/1/1992
                CUTS        Supercuts  11,33 đô-la





                  Học chứng khoán bằng cách CLICK vào website: https://CophieuX.com
   153   154   155   156   157   158   159   160   161   162   163